Từ lý thuyết kinh tế của John Maynard Keynes đến thực tế đối sách của Trung Quốc

Từ lý thuyết kinh tế của John Maynard Keynes đến thực tế đối sách của Trung Quốc
TCKT cập nhật: 12/03/2010

kinh_t.jpg

Sơ lược những lý thuyết kinh tế của John Maynard Keynes. Khủng hoảng kinh tế, là sự suy giảm các hoạt động kinh tế kéo dài và trầm trọng hơn cả suy thoái trong chu kỳ kinh tế. Biểu hiện của nó là sự suy giảm tổng cầu, tỷ suất lợi nhuận, kim ngạch xuất khẩu và sự gia tăng thất nghiệp trong nền kinh tế, dẫn đến tốc độ tăng trưởng giảm sút nghiêm trọng ảnh hưởng đến toàn bộ các chỉ tiêu kinh tế xã hội của mỗi quốc gia.

 

 

Trước J.M. Keynes, lý luận kinh tế truyền thống (trường phái cổ điển) cho rằng cung sẽ tự động tạo ra cầu, cơ chế thị trường sẽ làm cho tất cả mọi mặt của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa trở nên cân đối, chế độ kinh tế tư bản chủ nghĩa hoàn toàn tốt đẹp, không có gì thiếu sót, không cần phải có sự điều tiết của Nhà nước vào kinh tế, chủ trương tự do thả nổi, tự do cạnh tranh, tự do sản xuất, tự do mua bán. Tuy nhiên, Lý thuyết kinh tế tự điều chỉnh bị thất bại trước thực tế phũ phàng của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, đặc biệt một cuộc đại khủng hoảng kinh tế năm 1929 – 1933 đã làm tan rã tư tưởng tự do kinh tế. Cuộc khủng hoảng 1929 – 1933 đã bao trùm toàn thế giới, tình trạng thất nghiệp trở nên nghiêm trọng, tỷ lệ thất nghiệp của nước Anh trong thời ký chiến tranh chưa bao giờ thấp hơn 5%, có lúc lúc đặt đến mức nghiêm trọng là gần 20%. 

Mặt khác, vào đầu thế kỷ XX, lực lượng sản xuất và sự xã hội hóa sản xuất phát triển, độc quyền ra đời và bắt đầu bành trướng thế lực. Trước tình hình đó đòi hỏi phải có sự điều tiết của Nhà nước đối với sự phát triển kinh tế ở các nước tư bản chủ nghĩa, đồng thời phải có lý thuyết đáp ứng nhu cầu thực tiễn mới đang thay đổi này. Vì thế, lý thuyết kinh tế “Bàn tay hữu hình” ra đời và người sáng lập nó là John Maynard Kenyes. Lý thuyết này khẳng định sự cần thiết phải sự can thiếp của Nhà nước vào nền kinh tế, với sự điều tiết của mình Nhà nước có thể ngăn chặn hoặc hạn chế tối đa nguy cơ khủng khoảng kinh tế và thậm chí khi nền kinh tế đã rơi vào khủng hoảng, Nhà nước vẫn có khả năng đưa ra các chính sách giúp nền kinh tế tăng trưởng trở lại. Kenyes đã đưa ra mô hình tổng cầu (AD): Y = C + I + G + NX; Trong đó: Y là tổng lượng cầu về  sản phẩm của một nền kinh tế; C là chỉ tiêu tiêu dùng; G chi tiêu Chính phủ; NX là xuất khẩu ròng.

Để giải quyết vấn đề khủng hoảng kinh tế, J.M. Keneys cho rằng phải tìm cách để nâng cao Y, muốn vậy phải tăng các biến số trong hàm AD. Trong thời kỳ khủng hoảng, nếu để nền kinh tế thả nổi tự do thì các biến số C, I và NX sẽ không tự động tăng lên, khi đó nhất thiết cần sự can thiệp của Chính phủ, Chính phủ không những tự kích cầu bằng cách tăng chi tiêu của mình (G) mà bằng các chính sách vĩ mô khác làm tăng các nhân tố C, I, NX. Ông bác bỏ những lập luận ủng hộ việc cắt giảm lương để giải quyết vấn đề khủng hoảng kinh tế, vì việc đó sẽ đẩy lên làn sóng chống đối mạnh mẽ từ người lao động. Keneys chủ trương:

– Đối với giới chủ cần phải tăng tiền lương (chứ không phải cắt giảm tiền lương) để tăng tổng cầu, việc tăng lương vẫn có thể kéo theo sự gia tăng lợi nhuận cho giới chủ nếu có sự can thiệp tích cực của chính quyền nhằm kích tăng trưởng năng suất lẫn sản lượng. Kenyes cho rằng có thể tăng lương và tăng lợi nhuận (thặng dư) khi và chỉ khi ta nối kết được mức tăng trưởng tiền lương với mức tăng trưởng về năng suất, (Năng suất ở đây chính là năng suất lao động hay sản lượng  sản phẩm trong một giờ làm việc của công nhân). Nếu số lượng  sản phẩm trong một giờ gia tăng, và nếu số  sản phẩm tiêu thụ đối với số  sản phẩm thặng dư là một hằng số, thì sản lượng tuyệt đối cho tiêu thụ (lương)và cho thặng dư (lợi nhuận) có thể đồng loạt gia tăng.

– Vai trò quản lý của Nhà nước trong nền kinh tế.

+ Thực hiện chính sách trả lương cao nhằm cơ cấu lại ngành theo các phân xưởng đặt năng suất cao nhất (cấm hoạt động đối với những phân xưởng tốn chi phí cao mà năng suất thấp)

+ Tăng chi tiêu của Chính phủ (đi đôi với công tác điều tiết chính sách tiền tệ: giảm lãi suất), qua đó tạo điều kiện cho các công ty tăng cường đầu tư, thuê mướn thêm công nhân, tăng sẳn lượng, với phương hướng mở rộng thị trường. Chính phủ tăng cường tài trợ cho các dự án mở rộng sản xuất các mặt hàng thiết yếu và mang tính trọng điểm.

 + Trong thời kỳ suy thoái, các doanh nghiệp không muốn đầu tư mà giữ lại tiền mặt hoặc mua chứng khoán ngắn hạn để kiếm lời. Do vây, một mặt Chính phủ bắt đầu đánh thuế vào thu nhập chưa được đem đi đầu tư của các công ty và Nhà nước dùng số tiền đó để mở rộng thị trường và buộc doanh nghiệp phải có hướng giải quyết.

+ Bảo hộ mậu dịch: thời kỳ này, mỗi quốc gia đều đang cố gắng đẩy mạnh xuất khẩu  hoàng hóa của mình để kích thích tăng trưởng, vì vậy việc bảo hộ mậu dịch ở mức nào đó sẽ giúp các công ty trong nước yên tâm sản xuất và không cắt giảm nhân công.

Như vậy, lý thuyết kinh tế của J.M. Keneys đã phủ nhận chính sách kinh tế tự do chủ nghĩa của tư bản chủ nghĩa: tự do thả nổi, không cần can thiệp của Nhà nước vào hoạt động kinh tế, xã hội tư bản chủ nghĩa tất sẽ không đủ cầu có hiệu quả , từ đó không thể có đầy đủ công ăn việc làm, chủ trương mở rộng chức năng của Nhà nước, can thiệp một cách toàn diện vào kinh tế, cho rằng đây là con đường duy nhất để chế độ kinh tế hiện hành tránh được khủng hoảng toàn diện. Về mặt vận dụng chính sách cụ thể chủ trương áp dụng chính sách tài chính mở rộng, dùng chính sách lạm phát tiền tệ để thay thế chính sách tiền tệ truyền thống.

 Khái quát tình hình kinh tế thế giới thời gian qua

Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) cho rằng các nền kinh tế chính trên thế giới đang trên bờ suy thoái và ít có cơ hội hồi phục vào năm 2009. Tình trạng hỗn loạn mà nền kinh tế thế giới đang phải gánh chịu do khủng hoảng tài chính đã tác động mạnh mẽ đến các nước nghèo, sau sự sụp đổ của ngân hàng đầu tu Lehman Brathers hồi tháng 9/2008 và hàng loạt các tập đoàn lớn như: Merrill Lynch, Barford & Bingley, Fortiss và tập đoàn bảo hiểm của Nhật là Yamato Life Insuranace Co. Trong đó, những tác động xấu lớn nhất là tính trạng thất nghiệp, trao đổi thương mại quốc tế, giá cả bất động sản và kinh doanh ô tô đều giảm mạnh. OECD dự đoán, năm 2009, tăng trưởng kinh tế Mỹ năm 2009 là 0,9%, trong khi đó Nhật bản dưới 0,1% và các nước thuộc khu vực đồng tiền chung châu ÂU (Eurozone) dưới 0,5%, với tốc độ tăng trưởng cũng chậm lại ở các thị trường đang nổi như Braxin, Trung Quốc, Ấn Độ.

Thủ tướng Ôn Gia Bảo vừa cảnh báo cuộc khủng hoảng tài chính thế giới tác động đến nền kinh tế Trung Quốc thực sự nghiêm trọng. Cảnh báo này đưa ra say khi Ủy ban thống kê quốc gia Trung Quốc cho biết, tốc độ tăng trưởng công nghiệp của nước này giảm sút liên tục từ 16% hồi tháng 6 xuống còn 11,4% trong tháng 9 và xuống tiếp 8,2% trong tháng 10, thấp nhất trong 7 năm qua. Xuất khẩu của TQ trong tháng 10 vừa qua chỉ tăng 19,2% so với cùng kỳ năm ngoài, mức thấp nhất trong còng 4 tháng qua. Trung Quốc vốn là nước theo đuổi chính sách hướng mạnh về xuất khẩu, nhưng do cuộc khủng hoảng tài chính thế giới làm cho nhu  cầu nhập khẩu của Mỹ, châu Âu – các thị trường xuất khẩu chính của Trung Quốc giảm mạnh. Ngoài ra, trong suốt một thời gian dài hứng chịu lạm phát và những khó khăn kinh tế, người tiêu dùng đang thắt chặt chi tiêu khiến nền kinh tế càng trở nên ảm đạm. 

Thực tiễn đối sách của Trung Quốc trước cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới.

Theo Tân Hoa Xã, Chính phủ Trung Quốc đã thông qua gói kích thích kinh tế giá trị khoảng 586 tỷ USD (4000 tỷ nhân dân tệ) vào ngày 9/11, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong tiến trình phát triển kinh tế của quốc gia này. Đối với một quốc gia có tổng  sản phẩm quốc nội khoảng 3500 tỷ USD như Trung Quốc, thì đây là kế hoạch khổng lồ nếu so sánh với các cường quốc công nghiệp phát triển như Mỹ, với tổng  sản phẩm nội địa trên 14000 tỷ USD, chỉ chi khoảng 100 tỷ USD qua việc hoàn trả thuế trong mùa hè vừa qua. Số tiền khổng lồ này sẽ được chi đến năm 2010 vào 10 lĩnh vực quan trọng như: xây nhà cho người thu nhập thấp, nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng nông thôn, mạng lưới giao thông vận tải, đổi mới kỹ thuật công nghệ, tái thiết sau thiên tai, tăng chi phí phúc lợi và bảo vệ môi trường. Cùng với gói trợ giúp này Chính phủ Trung Quốc cũng đưa ra một loạt chính sách kích thích kinh tế:

 Áp dụng chính sách tài chính tích cực: Ngân hàng Trung Quốc đã liên tục hạ lãi suất cơ bản và nới lỏng các quy tắc cho vay của các ngân hàng thương mại nhủ dỡ bỏ mức trần tín dụng áp dụng đối với các NHTM để hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ;

 Chính phủ cố gắng cải thiện đời sống dân cư ở nông thông bằng cách đầu tư khá nhiều dự án lớn vào lĩnh vực cơ sở hạ tầng, đặc biệt là giao thông. Khuyến khích người dân, đặc biệt là các hộ gia đình ở khu vực nông thôn chi tiêu bằng cách giảm thuế; tăng phúc lợi xã hội, bảo vệ môi trường và đổi mới công nghệ. Tại Hội nghị Trung ương 3, khóa 17 của Đảng cộng sản Trung Quốc tháng 10 vừa qua, Chính phủ đã đưa ra một kế hoạch lớn nhằm đưa thu nhập của khoảng 800 triệu dân nông thôn tăng gấp đôi từ nay đến năm 2020.

 Đối với chính sách đối ngoại: Chính phủ áp dụng chính sách mở cửa dần dần có trật tự nhằm bảo hộ cho các ngành sản xuất trong nước có điều kiện tự sản xuất; tích cực, chủ động thu hút vốn đầu tư để mở rộng sản xuất nội địa. Trung Quốc vốn có một nền kinh tế hướng ngoại, phát triển mạnh xuất khẩu. Khủng hoảng tài chính và đình đốn kinh tế đã làm giảm nhu cầu nhập khẩu của Mỹ, châu Âu – vốn là thị trường xuất khẩu chính của Trung Quốc. Do đó, Trung Quốc đã quyết định lựa chọn một chính sách thuế khóa chủ động với nới lỏng có chừng mực các chính sách tiền tệ, nhằm khuyến khích; hỗ trợ tăng trưởng kinh tế nhanh bằng cách nâng cao nhu càu trong nước.

Bên cạnh các động thái của Chính phủ, bản thân các địa phương của Trung Quốc cũng có những đối sách nhằm nắm bắt cơ hội từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Điển hình là chính quyền thành phố Thượng Hải, họ nhận định đây là cơ hội để Thượng Hải đẩy nhanh qua trình xây dựng cơ sở hạ tầng cho một trung tâm tài chính thế giới. Ông Han Zheng, thị trưởng thành phố Thượng Hải cho biết, đến năm 2010, Thượng Hải sẽ có cơ sở hạ tầng xứng đáng là một trung tâm tài chính của thế giới và tiến tới năm 2020 trở thành một trong những thủ đô tài chính của thế giới. Từ đầu năm 2008 đến nay, đã có hơn 600 công ty thế giới hoạt động trong các lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm, môi giới, quản lý tài sản đặt văn phòng đại diện tại đây nhưng đang vấp phải khó khăn về nhân lực.

Đầu năm 2008, khi có những biểu hiện đầu tiên về khủng hoảng tài chính tín dụng ở Mỹ và sau đó là Anh, chính quyền Thượng Hải đã phát đi một thông điệp sẵn sàng tuyển dụng các tài năng tài chính về làm việc cho thủ phủ kinh tế và tài chính lớn này của Trung Quốc. Chính quyền thành phố đã thành lập những đoàn chuyên gia dự kiến đến Lodon và Niu York trước mắt sẽ tuyển dụng 102 nhân công trong lĩnh vực tài chính. Đồng thời một nhóm chuyên gia sẽ làm việc thường xuyên tại Mỹ để có thể thu nạp tuyển dụng những cán bộ cao cáp chuẩn bị cho sự phát triển nhân lực tài chính năm 2010-2020.

Bà Linda Stewert Giám đốc Epoch, văn phòng chuyên gia săn đầu người có trụ sở tại Boston (Mỹ) cho rằng, với khối lượng dự trữ 1900 tỷ USD. Trung Quốc đang ở trong hoàn cảnh hết sức thuận lợi và họ sẽ tận dụng mọi cơ hội để nhân viên, cán bộ cao cấp trong ngành tài chính ở Mỹ và Anh mất việc do cuộc khủng hoảng tài chính hiện nay.

Mặc dù những chính sách trên của Trung Quốc còn cần phải có thời gian để kiểm nghiệm kết quả. Nhưng rõ ràng những động thái này của Trung Quốc đã thể hiện sự nhạy bén của Chính phủ trước những diễn biến phức tạp của cuộc khủng hoảng kinh tế và đặc biệt là những đối sách này đã minh chứng cho lý thuyết kinh tế của J.M. Keneys vẫn nguyên giá trị trong thực tiễn kinh tế thế giới hiện nay.

Theo NGUYỄN MẠNH CƯỜNG – NCKHKT số 15