Hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam: Những vấn đề cần tiếp tục hoàn thiện

12 / 100

Mục tiêu đến năm 2020, Việt Nam hội nhập hoàn toàn với quốc tế trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán. Trong đó, giai đoạn 2006 -2010 là giai đoạn củng cố hội nhập, giai đoạn này tiếp tục hoàn thiện hơn nữa hệ thống pháp lý điều chỉnh hoạt động của thị trường dịch vụ kế toán, kiểm toán. Đến giai đoạn 2010 – 2020, giai đoạn hội nhập năng động: Việt Nam sẽ hội nhập toàn diện, bình đẳng với các nước trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán, chúng ta có cả nhập khẩu và xuất khẩu dịch vụ kế toán, kiểm toán. Trong tiến trình hội nhập WTO, Chính phủ Việt Nam cam kết với các nhà tài trợ và các tổ chức quốc tế là việc cải cách hệ thống kế toán Việt Nam trong đó có cam kết về hoàn thiện một hệ thống Chuẩn mực kế toán (CMKT) hoàn chỉnh phù hợp với thông lệ kế toán quốc tế. Theo lộ trình đó, Bộ Tài chính đã nghiên cứu soạn thảo và từng bước ban hành hệ thống CMKT Việt Nam (VAS). Từ năm 2001 cho đến nay, chúng ta đã ban hành 5 đợt với 26 chuẩn mực. Hệ thống CMKT Việt Nam ra đời đã tạo dựng khuôn khổ pháp lý trong lĩnh vực kế toán, tạo ra môi trường kinh tế bình đẳng, làm lành mạnh hóa các quan hệ và các hoạt động tài chính và quan trọng hơn là tạo ra sự công nhận của quốc tế đối với Việt Nam trong quá trình hội nhập.

Một số nét nhìn nhận, đánh giá khái quát hệ thống CMKT Việt Nam

Về khả năng hài hòa giữa CMKT Việt Nam với CMKT quốc tế
  
Với mục tiêu đáp ứng yêu cầu hội nhập, từ năm 1996, Việt Nam đã nghiên cứu toàn bộ hệ thống CMKT quốc tế (IAS) và CMKT của một số quốc gia trong khu vực nhằm xác định điều kiện và khả năng áp dụng cho nền kinh tế Việt Nam. Hệ thống các VAS được nghiên cứu, xây dựng dựa trên cơ sở các IAS và chuẩn mực lập BCTC quốc tế (IFRS) được cập nhật mới nhất. Với 26 CMKT đã ban hành cho đến nay cho thấy:

a) Sự hài hòa tương đồng:

– Hệ thống CMKT Việt Nam là khá hoàn chỉnh, hài hòa ở mức độ cao so với hệ thống CMKT quốc tế. VAS cơ bản phù hợp với IAS và IFRS không chỉ về nội dung, về cơ sở đánh giá, ghi nhận và trình bày trên BCTC mà còn cả về hình thức trình bày.

– Từng CMKT đã được dịch  ra tiếng Anh tạo điều kiện cho các nhà đầu t­ư nước ngoài, các nước thành viên trong khu vực và trên toàn thế giới có thể tiếp cận dễ dàng với hệ thống CMKT Việt Nam . Điều này không chỉ góp phần hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho hoạt động kế toán của Việt Nam bắt nhịp kịp thời với sự hội nhập kế toán ở các nước có nền kinh tế thị trường, mà quan trọng hơn là tạo môi trường pháp lý cho hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực.

– Trong quá trình phát triển, từ việc chỉ chú trọng phát triển kế toán phục vụ cho mục đích thu thuế,Việt Nam đã có những nỗ lực chuyển đổi phát triển một hệ thống kế toán toàn diện hơn, được cộng đồng thế giới áp dụng IFRS thừa nhận.

b) Những điểm khác biệt: Nếu so sánh nội dung giữa các CMKT Việt Nam đã ban hành với các CM kế toán quốc tế chúng ta sẽ thấy còn có sự khác biệt nhất định:

– Một số điểm của CM này trình bày cụ thể hơn CM kia và ngược lại, hoặc còn một vài khác biệt về cách dùng thuật ngữ, hoặc về các phương pháp được áp dụng, phạm vi trình bày.

– Hiện nay số lượng các CMKT của Việt Nam so với CMKT quốc tế cũng ch­ưa tương đương (Quốc tế có 51 CM, Việt Nam mới ban hành 26 CM)

– Đồng thời “tinh thần kế toán độc lập” của CMKT quốc tế vẫn còn giới hạn trong các VAS.

– Hiện nay các quy tắc kế toán còn bị bó buộc trong một vài hệ thống tài khoản đã định sẵn và các bước hạch toán đã vạch sẵn cho từng giao dịch cụ thể là chưa phù hợp với tinh thần của IFRS. Những quy định kế toán cứng nhắc này sẽ là một trở ngại trong việc phát triển kế toán chuyên nghiệp, hoặc hạn chế những kế toán viên có trình độ chuyên môn cao phát huy năng lực của mình.

Sự khác biệt như­ trên thật dễ hiểu vì quan điểm xây dựng hệ thống CMKT Việt Nam là phải phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam, phù hợp với đặc thù về trình độ phát triển kinh tế, cơ chế chính trị, hệ thống pháp luật, văn hóa, xã hội của Việt Nam, phù hợp với trình độ nguồn nhân lực kế toán của Việt Nam. Những khác biệt này cũng chỉ là tạm thời và ngày càng thu hẹp khi nền kinh tế Việt Nam phát triển đến mức độ cao hơn, nguồn nhân lực kế toán tốt hơn,… các VAS sẽ được tiếp tục hoàn thiện ở mức độ cao hơn, thống nhất cao hơn với các IAS và IFRS.

Về khả năng thực thi của hệ thống CMKT Việt Nam trong thực tiễn
  
a) Những điểm thuận lợi:

– Có thể khẳng định, tính thực thi của hệ thống CMKT Việt Nam trong thực tiễn là khá cao. Bởi vì, ngay khi bắt đầu việc nghiên cứu và xây dựng hệ thống CMKT, chúng ta đã xác định quan điểm là các CMKT Việt Nam được xây dựng dựa trên cơ sở phù hợp với CMKT quốc tế như­ng phải phù hợp với điều kiện kinh tế – chính trị – xã hội – pháp luật của Việt Nam trong giai đoạn hiện tại và tương lai gần.

– Quá trình soạn thảo CMKT do Bộ Tài chính tiến hành đã huy động và thu hút sự tham gia của đông đảo các chuyên gia từ nghiên cứu lý luận đến thực tiễn và có sự trợ giúp của các chuyên gia nước ngoài, nên công việc soạn thảo đã tiến hành nhanh chóng, đạt chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu thực tiễn.  

– Thực tế cho thấy, kể từ khi hệ thống CMKT Việt Nam ra đời cho đến nay đã góp phần đáp ứng yêu cầu của quá trình hội nhập, mở cửa về dịch vụ kế toán. Việc ghi nhận và trình bày BCTC theo thông lệ kế toán quốc tế đã tạo cho kế toán Việt Nam có tiếng nói chung với bạn bè quốc tế, tạo sự thu hút của các nhà đầu t­ư nước ngoài vào Việt Nam . Các làn sóng đầu tư­ vào Việt Nam dưới nhiều hình thức ngày càng gia tăng cả về chiều rộng lẫn chiều sâu và là một nguyên nhân quan trọng thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam trong thời gian gần đây. 

– Hệ thống CMKT Việt Nam góp phần thúc đẩy sự phát triển của thị trường chứng khoánViệt Nam . Hệ thống CMKT đảm bảo tính thống nhất trong ghi chép kế toán, trình bày và thuyết minh BCTC của các DN. Điều này rất cần thiết cho sự phát triển của thị trường chứng khoán vì yêu cầu đặt ra đối với các công ty niêm yết là phải công khai, minh bạch thông tin và báo cáo tài chính trung thực. Do đó, hệ thống CMKT ra đời càng chứng tỏ tầm quan trọng trong việc thúc đẩy TTCK phát triển.

– Việt Nam đang thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế thị trường với việc đa dạng hóa các loại hình doanh nghiệp, các thành phần kinh tế khác ngoài DNNN. Khác hẳn so với trước đây, chúng ta đã có những chính sách tài chính riêng biệt, quy định đối với các DNNN mà không quy định đối với doanh nghiệp cổ phần và TNHH, từ đó, không tạo ra môi trường bình đẳng và sự đồng nhất, có thể so sánh được. Còn ngày nay, cạnh tranh mạnh mẽ hơn, bình đẳng hơn đòi hỏi các DN phải công khai thông tin một cách hữu hiệu hơn để tăng cường thu hút đầu tư­. Vì vậy, hệ thống CMKT với mục tiêu là các báo cáo tài chính phải phản ánh đúng thực trạng kinh doanh của doanh nghiệp và phải so sánh được các DN với nhau, không phải chỉ so sánh giữa các loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam, mà của cả doanh nghiệp Việt Nam so với những doanh nghiệp nước ngoài, hoặc là doanh nghiệp nước ngoài cũng có thể so với doanh nghiệp Việt Nam. Vì thế, mục tiêu của chuẩn mực kế toán là rất cao và khác hẳn với cơ chế chính sách mà Việt Nam đã có từ những năm trước. Hệ thống CMKT đã góp phần không nhỏ trong việc hình thành “sân chơi” bình đẳng- ích nước, lợi doanh nghiệp.

– Hệ thống CMKT có vai trò không nhỏ trong việc quản lý tài chính tầm vĩ mô của Nhà nước thông qua hệ thống các cơ quan chức năng như­ thuế, thanh tra tài chính… Khi gia nhập WTO, Việt Nam cam kết mở cửa hội nhập về dịch vụ kế toán, kiểm toán. Kế toán, kiểm toán đã trở thành một nghề nghiệp được xã hội và pháp luật thừa nhận thì sự cần thiết phải có CMKT để hướng dẫn và kiểm tra là tất yếu. Đối với các cơ quan chức năng của Nhà nước, hệ thống CMKT là một trong những cơ sở để kiểm tra, kiểm soát đánh giá trách nhiệm của kế toán và những người có liên quan đồng thời thông qua đó nhằm nâng cao chất lượng nghề nghiệp của chính các cơ quan quản lý này. Vì vậy, đội ngũ cán bộ thuế, thanh tra tài chính…  phải thường xuyên bồi dưỡng nâng cao kiến thức nghiệp vụ kế toán thường xuyên mới đáp ứng được yêu cầu công việc.

– Thực tế vận dụng VAS vào thực tiễn cho thấy về cơ bản nội dung của các VAS là có sự thống nhất, không có sự xung đột với các cơ chế tài chính hiện hành nhờ đó tạo điều kiện thuận lợi cho các DN trong quá trình thực hiện.

b) Những vướng mắc và khó khăn:

– Đội ngũ những người làm nghề kế toán ở các DN, thậm chí cả các cán bộ ở các cơ quản lý chức năng còn ch­ưa thật sự chủ động cập nhật, chư­a nắm bắt hết được nội dung của các CM làm cho hiệu quả công tác triển khai các CM vào thực tiễn còn hạn chế. Thói quen chờ đợi sự hướng dẫn cụ thể của Bộ Tài chính rồi vận dụng máy móc tồn tại trong một bộ phận không nhỏ những người làm công tác kế toán hiện nay. Thực trạng này đặt ra vấn đề cần đào tạo bồi dưỡng để tạo nguồn nhân lực kế toán đáp ứng yêu cầu của thực tiễn.

– Thực tế kế toán ở các doanh nghiệp và đơn vị chủ yếu quan tâm đến chế độ kế toán, các văn bản hướng dẫn chế độ kế toán, thường ít quan tâm đến các chuẩn mực kế toán.

– Còn có sự chư­a thống nhất trong một số khái niệm, thuật ngữ sử dụng giữa CMKT với các văn bản pháp luật có liên quan như­ Luật Đầu tư­ nước ngoài, Luật thuế… đòi hỏi phải có sự điều chỉnh để các DN trong quá trình thực hiện sẽ thuận lợi hơn.
  
Một số ý kiến hoàn thiện hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam

Chúng ta cần có thời gian để hệ thống CMKT trải nghiệm trong thực tiễn, vì còn có khá nhiều vấn đề mới mẻ đối với nước ta chưa được kiểm chứng. Nền kinh tế thế giới và Việt Nam còn luôn biến động, các CMKT quốc tế sẽ không ngừng thay đổi, vì vậy, hệ thống CMKT Việt Nam sẽ không ngừng được bổ sung, hoàn thiện. Để đáp ứng yêu cầu thực tiễn trong thời gian tới, hệ thống CMKT Việt Nam cần được tiếp tục phát triển và hoàn thiện.

Thứ nhất, tiếp tục rà soát, hoàn thiện nội dung của các CMKT đã ban hành, chỉnh sửa bổ sung những điểm còn ch­ưa thống nhất giữa các chuẩn mực do các chuẩn mực được ban hành trước có thể có những điểm chưa hoàn toàn phù hợp với các CMKT được ban hành sau, hoặc giữa CMKT với các văn bản pháp luật có liên quan nhằm tạo sự thống nhất về cùng một vấn đề, tạo điều kiện cho các DN trong quá trình áp dụng cũng nh­ư các cơ quan quản lý trong quá trình kiểm tra. Trong quá trình hoàn thiện các CMKT đã ban hành cũng cần tính tới việc cập nhật những thay đổi mới nhất trong nội dung của các chuẩn mực lập và trình bày BCTC hiện nay.

Thứ hai, phải nhanh chóng triển khai các chuẩn mực, thông tư­ hướng dẫn CM đã ban hành vào thực tiễn cùng với các văn bản pháp luật khác nh­ư Luật Kế toán, Nghị định hướng dẫn luật… Chỉ có thông qua việc triển khai các văn bản trên vào thực tiễn, chúng ta mới có câu trả lời xác đáng nhất về tính phù hợp của hệ thống CM, đồng thời, chúng ta mới có thể hoàn thiện chúng ngày một tốt hơn. Để làm được điều này, ngoài việc triển khai đến các DN sớm, cần có sự kiểm tra đánh giá thường xuyên, có hệ thống kết quả của công tác triển khai đó ở các loại hình DN. Soạn thảo các tài liệu hướng dẫn, sách tham khảo, các buổi hội thảo làm cho các văn bản trên gần gũi, dễ hiểu hơn với người thực hiện. Hiện nay, số lượng 26 chuẩn mực cho thấy đã khá đầy đủ với điều kiện của Việt Nam, vì vậy, thời gian này nên tập trung vào việc khảo sát tổng kết đánh giá hiệu quả của quá trình soạn thảo các chuẩn mực đã ban hành nhằm rút ra những kinh nghiệm bổ ích cho các lần ban hành sau.

Thứ ba, xây dựng và phát triển đội ngũ những người làm kế toán được trang bị đầy đủ cả về chuyên môn nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp nhằm đạt đựơc sự công nhận của khu vực và quốc tế, nhằm đưa hệ thống CMKT vào thực tiễn một cách nhanh chóng. Đây là vấn đề cốt lõi của bất cứ một quá trình đổi mới nào. Do đó, công tác đào tạo, bồi dưỡng kiến thức lý luận và thực tiễn về CMKT của các trường đại học, các tổ chức nghề nghiệp, các DN cần tiến hành sớm, thường xuyên và có sự phối hợp với nhau…

Thứ tư, sẽ tiếp tục nghiên cứu một số CMKT quốc tế để ban hành những nội dung chủ yếu của một số chuẩn mực mà Việt Nam chưa có, như­ CM số 32- Công cụ tài chính; CM số 36- Tổn thất tài sản; CM số 41- Nông nghiệp; CM số 39- Đánh giá và ghi nhận thông tin tài chính… Những chuẩn mực này đều là những chuẩn mực khó và chưa phổ biến ở Việt Nam . Do đó, quá trình soạn thảo cần tiến hành từng bước, trong một thời gian nhất định đủ để hiểu được nội dung CMKT quốc tế và xác định cách thức áp dụng vào Việt Nam cho phù hợp. Riêng lĩnh vực tài chính công cần sớm ban hành CMKT công nhằm đổi mới cách thức về quản lý kế toán, tài chính và ngân sách trong lĩnh vực công theo mô hình kế toán “dồn tích” để tạo lập một hệ thống thông tin thống nhất và phù hợp với xu hướng chung của các nước tiên tiến trên thế giới.

Thứ năm, cần tiếp tục nâng cao vai trò của hội nghề nghiệp kế toán, kiểm toán (VAA và VACPA). Càng hội nhập sâu trong lĩnh vực kế toán chúng ta càng nhận thấy vai trò của VAA và VACPA trong việc truyền bá chuyên môn kiến thức lý luận và thực tiễn về hệ thống CMKT cũng nh­ư trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực đạt trình độ quốc tế, cho đất nước. Vì vậy, VAA và VACPA cần có những lộ trình cụ thể cho sứ mệnh quan trọng này. 

PGS.TS Đoàn Xuân Tiên (Tạp chí Kiểm toán)
Tapchiketoan.com

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *