Các vấn đề về kiểm toán nội bộ

Các vấn đề về kiểm toán nội bộ
TCKT cập nhật: 29/12/2009

Nếu như kiểm toán độc lập đã có mặt ở Việt Nam được hơn 10 năm thì cho
đến nay, khái niệm kiểm toán nội bộ vẫn còn xa lạ với nhiều nhà quản
lý. Tuy nhiên, yêu cầu hội nhập WTO, sự phát triển nhanh chóng của thị
trường chứng khoán và những vụ bê bối về quản trị ở một số doanh nghiệp
lớn của Nhà nước gần đây cho thấy sự cần thiết của kiểm toán nội bộ ở
doanh nghiệp.

Trên thế giới, kiểm toán nội bộ đã ra đời từ lâu
nhưng chỉ phát triển từ sau các vụ gian lận tài chính ở Công ty
Worldcom và Enron (Mỹ) những năm 2000-2001 và đặc biệt là khi Luật
Sarbanes-Oxley của Mỹ ra đời năm 2002. Luật này quy định các công ty
niêm yết trên thị trường chứng khoán Mỹ phải báo cáo về hiệu quả của hệ
thống kiểm soát nội bộ công ty.

Trong khi hoạt động của kiểm
toán độc lập giới hạn ở việc kiểm tra báo cáo tài chính (mức độ trung
thực và hợp lý), hoạt động của kiểm toán nội bộ không bị giới hạn ở bất
kỳ phạm vi nào trong công ty, từ mua hàng, sản xuất, bán hàng đến quản
lý tài chính, nhân sự hay công nghệ thông tin. Mục đích của kiểm toán
nội bộ là phục vụ cho công tác quản lý doanh nghiệp, chứ không phải cho
đối tác bên ngoài. Kiểm toán nội bộ không chỉ đánh giá các yếu kém của
hệ thống quản lý mà còn đánh giá các rủi ro cả trong và ngoài công ty.

Lợi ích của kiểm toán nội bộ

Kiểm toán nội bộ có thể đem lại cho doanh nghiệp rất nhiều lợi ích. Đây
là công cụ giúp phát hiện và cải tiến những điểm yếu trong hệ thống
quản lý của doanh nghiệp. Thông qua công cụ này, ban giám đốc và hội
đồng quản trị có thể kiểm soát hoạt động tốt hơn, quản lý rủi ro tốt
hơn, tăng khả năng đạt được các mục tiêu kinh doanh. Một doanh nghiệp
có kiểm toán nội bộ sẽ làm gia tăng niềm tin của các cổ đông, các nhà
đầu tư trên thị trường chứng khoán về hệ thống quản trị ở đây. Các
thống kê trên thế giới cho thấy các công ty có phòng kiểm toán nội bộ
thường có báo cáo đúng hạn, báo cáo tài chính có mức độ minh bạch và
chính xác cao, khả năng gian lận thấp và cuối cùng là hiệu quả sản xuất
kinh doanh cao hơn so với các công ty không có phòng kiểm toán nội bộ.

Tuy nhiên, có một thực tế là không phải doanh nghiệp nào cũng thấy hết
các lợi ích trên và có biện pháp để hiện thực hóa các lợi ích đó. Nhiều
doanh nghiệp theo đuổi mục tiêu tăng trưởng nóng và đã không cân bằng
được ba mục tiêu bắt buộc của phát triển bền vững. Đó là tăng trưởng,
hiệu quả và kiểm soát. Kết quả là tam giác ba mục tiêu này không thực
sự mở rộng ở cả ba góc trong quá trình tăng trưởng một cách đồng bộ.
Thay vào đó là bị co méo ở hai góc kia, tăng trưởng tuy có đạt, nhưng
hiệu quả và kiểm soát lại giảm sút hoặc không ngang tầm với sự tăng
trưởng.

Để phát triển bền vững, bất kỳ doanh nghiệp nào cũng
phải cân bằng cả ba mục tiêu trên. Đây là bài toán thực sự của quản
trị. Doanh nghiệp nào xem nhẹ một trong ba mục tiêu trên thì sớm muộn
cũng phải trả giá.

Thực tế kiểm toán nội bộ ở Việt Nam

Hiện nay khung pháp lý cao nhất cho hoạt động kiểm toán nội bộ là Luật
Doanh nghiệp (cũ và mới). Khái niệm đầu tiên liên quan đến kiểm toán
nội bộ quy định trong luật là ban kiểm soát do cổ đông bầu ra. Tuy
nhiên, vai trò, chức năng, trách nhiệm của ban kiểm soát còn quá mơ hồ,
làm công việc của thanh tra mang tính chất đột xuất, theo yêu cầu hơn
là thường xuyên.

Các doanh nghiệp nhà nước có thêm một quy
định, hướng dẫn về vấn đề kiểm toán nội bộ (Quyết định 832/TC/QQĐ/CĐKT
năm 1997). Theo đó, phòng kiểm toán nội bộ vẫn báo cáo lên tổng giám
đốc như một bộ phận thuộc sự điều hành của tổng giám đốc. Điều này làm
giảm tính độc lập của phòng kiểm toán nội bộ, vì toàn bộ hệ thống quản
lý trong doanh nghiệp (do ban giám đốc quy định) đều là đối tượng đánh
giá của kiểm toán nội bộ. Trong khi đó, theo thông lệ phổ biến trên thế
giới, phòng kiểm toán nội bộ chịu trách nhiệm báo cáo trực tiếp lên cho
ban kiểm soát hoặc hội đồng quản trị, tức là cấp cao hơn ban giám đốc.

Ở Việt Nam, trong những năm qua, ban kiểm soát ở các doanh nghiệp nhà
nước và một số ngân hàng đã hoạt động nhưng chưa mang lại hiệu quả do
vai trò, chức năng, trách nhiệm chưa rõ ràng và còn thiếu công cụ để
thực hiện công tác giám sát.

Ở các loại hình công ty khác,
hoạt động kiểm toán nội bộ ít nhiều đã hình thành khi các công ty thực
hiện hệ thống quản lý chất lượng hay môi trường (ISO). Các công ty có
được chứng chỉ ISO bắt buộc phải thực hiện đánh giá nội bộ (thực chất
là kiểm toán nội bộ) ít nhất mỗi năm một lần về mức độ tuân thủ các
tiêu chuẩn ISO. Việc đánh giá này thường do một ban hay một bộ phận –
thường gọi là ban ISO hay ban đảm bảo chất lượng – thực hiện và báo cáo
lên tổng giám đốc. Tuy nhiên, do đánh giá nội bộ chỉ giới hạn ở việc
tuân thủ các tiêu chuẩn của ISO (chủ yếu về mặt thủ tục, văn bản), nên
hầu như không giúp cải tiến nhiều về hệ thống kiểm soát ở công ty.
Trong thực tế, nhiều doanh nghiệp thực hiện ISO đã nhận ra điều này và
đã thiết lập bộ phận đánh giá nội bộ ở cấp độ cao hơn, đầy đủ hơn và
thực chất hơn.

Ở Việt Nam, việc xây dựng kiểm toán nội bộ
trong doanh nghiệp chắc chắn sẽ phát triển trong thời gian tới cùng với
sức phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam. Sự đòi hỏi của các
nhà đầu tư về một hệ thống quản trị chuyên nghiệp sẽ buộc các doanh
nghiệp phải chú ý xây dựng hệ thống kiểm toán nội bộ sao cho thật hiệu
quả.

Xu hướng thiết lập hệ thống kiểm toán nội bộ cũng sẽ phát
triển trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đang hoạt động
tại Việt Nam. Các doanh nghiệp này đang ngày càng có đóng góp cao về
doanh thu, lợi nhuận đối với công ty mẹ ở nước ngoài. Và rất nhiều công
ty mẹ đó đang niêm yết trên thị trường chứng khoán Mỹ hay ở các thị
trường chứng khoán lớn khác trên thế giới. Do đó, dần dần, các công ty
nước ngoài ở Việt Nam cũng buộc phải tuân thủ những quy định như Luật
Sarbanes-Oxley của Mỹ, tức là phải thực hiện kiểm toán nội bộ. Các công
ty này sẽ ngày càng nhận được nhiều chương trình kiểm toán nội bộ do
công ty mẹ thực hiện hoặc sẽ phải xây dựng bộ phận kiểm toán độc lập
của riêng mình.

Làm sao xây dựng bộ phận kiểm toán nội bộ?

Việc xây dựng bộ phận kiểm toán nội bộ trong doanh nghiệp phải được
thực hiện qua nhiều bước. Trước hết, doanh nghiệp phải xác định được
nhu cầu cụ thể và mục đích cụ thể của bộ phận này. Kế đó là phải xác
định rõ ràng cơ cấu tổ chức, vai trò, chức năng và quyền hạn của bộ
phận kiểm toán nội bộ, có thể bao gồm cả một văn kiện như điều lệ kiểm
toán để đảm bảo đủ tính độc lập cho bộ phận kiểm toán nội bộ hoạt động.
Việc tiếp theo quan trọng không kém là tuyển dụng kiểm toán viên
trưởng, kiểm toán viên và đào tạo họ. Một điều cần lưu ý là nghiệp vụ
kiểm toán nội bộ khác nhiều kiểm toán độc lập và đòi hỏi trình độ
chuyên môn và kinh nghiệm rất cao. Sau cùng, bộ phận kiểm toán nội bộ
cần thực hiện kiểm toán thí điểm và tốt nhất là có sự đánh giá của một
công ty tư vấn độc lập, để rút kinh nghiệm trước khi bắt đầu xây dựng
chiến lược và kế hoạch kiểm toán dài hạn.

Kiểm toán nội bộ
là hoạt động đánh giá và tư vấn nội bộ trong doanh nghiệp, có tính chất
độc lập và khách quan, nhằm đem lại giá trị và cải tiến công tác quản
lý ở doanh nghiệp thông qua việc tăng cường kiểm soát nội bộ và quản lý
rủi ro.

tapchiketoan.com