Kiểm toán – kiểm toán với sự minh bạch thông tin tài chính trên thị trường

Kiểm toán – kiểm toán với sự minh bạch thông tin tài chính trên thị trường
TCKT cập nhật: 10/03/2010

Bàn về tính minh bạch với vai trò của kế toán – kiểm toán.
Minh bạch trong hoạt động của doanh nghiệp, ngân hàng và vai trò của kế toán
–  kiểm toán.

 

 

    Tính minh bạch (transparency) không chỉ
giới hạn trong việc kiểm toán báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Nói đến tính
minh bạch – trước hết người ta thường nói đến tính minh bạch trong việc quản
trị công ty, doanh nghiệp. Việc minh bạch trong hoạt động quản trị sẽ đảm bảo
cho doanh nghiệp hoạt động ổn định và tăng trưởng vững chắc. Một doanh nghiệp
có hệ thống quản trị tốt và minh bạch bao giờ cũng có các chính sách quản trị
rủi ro hích hợp.    

   Có quản điểm cho rằng: sự minh bạch của doanh
nghiệp là một thứ tài sản rất có giá trị đối với bản thân doanh nghiệp. Một khi
doanh nghiệp đã tạo được niềm tin với các nhà đầu tư, các đối tác kinh doanh..
sẽ tạo điều kiện tốt cho việc huy động vốn đầu tư, tìm kiếm đối tác kinh doanh,
vay vốn ngân hàng thuận lợi hơn; mặt khác cũng nâng cao được thương hiệu của
doanh nghiệp trên thị trường. ngân hàng – với tư cách là một doanh nghiệp – khi
đã tạo được niềm tin với khách hàng thì cũng sẽ có điều kiện huy động thêm một
số lượng lớn tiền gửi, mở rộng các nguồn vốn ở cả thị trường trong nước và
ngoài nước…

    Không minh bạch – khó tạo được niềm tin
với các đối tác làm ăn. Không minh bạch,các cổ đông và các nhà đầu tư sẽ không
tin tưởng vào doanh nghiệp và ngân hàng trong việc quản lý đồng vốn của họ ngân
hàng sẽ khó quyết định cho doanh nghiệp vay vốn – và ngược lại ngân hàng cũng khó
khăn trong việc huy động vốn vay của chính bản thân mình.

    Tóm lại: sự minh bạch của doanh nghiệp là
cơ sở quan trọng để phát triển bền vững, làm gia tăng giá trị của các doanh
nghiệp nói chung. Muốn phát triển mạnh và bền vững, doanh nghiệp cũng như ngân
hàng đều cần phải đề cao tính minh bạch.

    Hệ thống kế toán – kiểm toán là công cụ không
thể thiếu để thực hiện việc minh bạch trong quản lý công ty. Các công ty kiểm
toán luôn trợ giúp để doanh nghiệp có hệ thống quản trị minh bạch – không chỉ
trong phạm vi quản lý tài chính kế toán. Thông qua quá trình kiểm toán đưa ra
các khuyến nghị về quản trị công ty, quản trị rủi ro, hoàn thiện hệ thống kiểm
soát nội bộ.. giúp doanh nghiệp điều chỉnh kịp thời các tồn tại, hoàn thiện hệ
thống quản trị – hướng tới việc tăng cường tính công khai minh bạch.

Tính minh bạch – một yêu cầu quan trọng trong Chuẩn mực kế
toán quốc tế về báo cáo tài chính

    Mục đích của các báo cáo tài chính là
cung cấp thông tin tài chính của đơn vị lập báo cáo cho các đới tượng có nhu
cầu sử dụng. Tính minh bạch của các báo cáo tài chính được đảm bảo thông qua
việc công bố đầy đủ và có thuyết minh rõ ràng về những thông tin hữu ích, cần
thiết cho việc ra quyết định kinh tế của nhiều đối tượng sử dụng thông tin.

    Báo cáo tài chính càng đầy đủ thông tin
càng tố – nhưng việc cung cấp thông tin cũng tốn kém. Vì vậy, lợi ích cuối cùng
của tính minh bạch cao hơn nữa cần phải được tính toán kỹ lưỡng.

    Việc áp dụng các chuẩn mực kế toán được
quốc tế chấp nhận là một biện pháp cần thiết để tạo tính minh bạch và giải
thích đúng đắn các báo cáo tài chính.

    Thông tin trên báo cáo phải đảm bảo độ
tin cậy, chú trọng nội dung hơn hình thức, trung lập, thận trọng và hoàn chỉnh.

    – Thông tin phái được trình bày một cách nhất
quán giữa các thời kỳ và giữa các đơn vị để giúp cho người sử dụng có thể đưa
ra các đánh giá, so sánh quan trọng.

    – Thông tin phải dễ hiểu đối với người sử
dụng (có sự hiểu biết nhất định về kinh tế, kinh doanh và kế toán).

    Những điểm cần lưu ý cân nhắc:

    – Chậm trễ trong việc lập báo cáo có thể
làm tăng độ tin cậy nhưng cũng có thể làm mất đi tính thích hợp.

    – Lợi ích do thông tin mang lại thường là
phải lớn hơn chi phí bỏ ra để cung cấp những thông tin đó.

    – Trong điều kiện nhất định, người cung
cấp phải cân nhắc hợp lý giữa các yêu cầu để các báo cáo tài chính đạt được mục
tiêu trung thực và hợp lý.

    – Việc không công bố vẫn tốt hơn là công
bố những thông tin sai lệch.

 Tại sao thông tin tài chính của Việt Nam chưa thực
sự minh bạch?

Tính minh bạch trong các báo cáo tài chính chưa được
coi trọng đúng mức

    Chuẩn mực kế toán quốc tế đã đưa ra các
khái niệm, yêu cầu, điều kiện và cả những quan điểm chung về tính minh bạch của
báo cáo tài chính. Các quốc gia đều hiểu rất rõ để đặt được tính minh bạch của
báo cáo tài chính thì sẽ được những lợi ích gì và mất những chi phí gì. Tính
minh bạch của các báo cáo tài chính không còn là vấn đề bàn cãi là làm hay
không nên làm, mà nó đã thuộc trách nhiệm của các cơ quan quản lý cũng như từng
công ty, doanh nghiệp.

    Trong kế toán quốc tế, tính minh bạch của
báo cáo tài chính dễ dàng dặt được bởi vì:

    – Để đảm bảo cho sự ổn định của thị
trường tài chính và thị trường vốn, các cơ quan quản lý đã đặt vấn đề quan tâm
đặc biệt đến chất lượng thông tin được cung cấp cho các đối tượng tham gia thị trường.

    – Bản thân các tổ chức cung cấp thông tin
cũng tự thấy trách nhiệm của minh trong việc cải tiến hệ thống thông tin nội bộ,
để tạo danh tiếng của họ trong việc cung cấp thông tin có chất lượng.

    – Luật pháp của họ can thiệp sâu vào thị
trường và có chế tài mạnh mẽ để cử lý các hành vi vi phạm.

    – Trình độ hiểu biết của dân chúng về
kinh tế, kinh doanh, kế toán khá tốt nên đã đặt ra những yêu cầu rất cao đối
với chất lượng thông tin được cung cấp.

Trong nền kinh tế Việt Nam các điều kiện trên chưa có đủ
hoặc có nhưng không đầy đủ và vẫn còn mang tính hình thức – vì vậy tính minh
bạch của các báo cáo tài chính còn hạn chế.

Chưa thực hiện đầy đủ các quy định chung của Chuẩn mực
kế toán quốc tế về lập và trình bày các báo cáo tài chính

    Thứ nhất, về số lượng báo cáo: thiếu “Báo
cáo vốn chủ sở hữu”.

    Thứ hai, về nội dung của hệ thống báo
cáo: có báo cáo lại chi tiết quá (Bảng cân đối kế toán, Bảng thuyết minh báo
cáo) có báo cáo lại cô đọng quá (Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh).

    Thứ ba,  về cách đưa thông tin và
trình bày trên báo cáo. Báo cáo tài chính của Việt Nam có những nội dung kê khai rất chi
tiết nhưng cách trình bày lại chưa rõ ràng.

    – Không có nhiều loại số liệu để so sánh
đánh giá;

    – Không có thêm thông tin bổ sung ngoài thước
đo giá trị (hay còn gọi là thông tin phi tài chính có liên quan).

    – Không sử dụng các công cụ để phân tích
luôn trên các báo cáo. Chúng tôi cho rằng các báo cáo tài chính chỉ cần đưa
thông tin ở mức độ vừa phải, nhưng trình bày rõ ràng và kèm theo sự phân tích
số liệu> như vậy mới đáp ứng yêu cầu minh bạch, dễ hiểu đối với người sử
dụng thông tin.

    Thứ tư ,  một vài khoản mục của báo
cáo tài chính chưa đủ 2 điều kiện của một số yếu tố được ghi nhận vào báo cáo
tài chính nhưng vẫn được đưa vào báo cáo tài chính (chưa đáp ứng yêu cầu minh
bạch).

    Thứ năm, về biểu mẫu: các báo cáo tài
chính bắt buộc phải lập theo đúng mẫu đã được Bộ tài chính quy định. Điều này
vừa thể hiện sự cứng nhắc vừa làm mất tính chủ động sáng tạo của các kiểm toán
viên.

    Thứ sáu, về tính nhất quán và ổn đinh:
báo cáo tài chính thay đổi quá nhiều trong một vài năm gần đây, là khó khăn rất
lớn cho việc tìm hiểu, ghi nhớ, làm quen của các đối tượng lập và sử dụng thông
tin báo cáo. Sự ổn định sẽ có tác động tốt đến kết quá trình nhận thức của các
đối tượng có nhu cầu sử dụng thông tin kế toán.

    Thứ bẩy, về việc công khai báo cáo tài
chính: nội dung công khai báo cáo của VN ít hơn và thời hạn chận nhất phải công
bố cũng ngắn hơn – so với chuẩn mực quốc tế. tuy nhiên, quy định này trên thực
tế hầu như không được tôn trọng.

    Thứ tám, về hoạt động quản lý của Nhà
nước đối với kế toán: quản lý chặt chẽ, tập trung, thống nhất với hoạt động kế
toán trong toàn bộ nền kinh tế. Đây vừa là ưu điểm, vừa là nhược điểm. Quản lý
chặt chẽ, đồng bộ, tạo ra sự thống nhất trong toàn bộ nền kinh tế – đó là ưu
điểm. Song quản lý quá chặt chẽ, chi tiết đôi, khi lại tạo ra sự cứng nhắc, bị
động và không hiệu quả. Mặt khác, nó còn tạo ra thói quen ỷ lại, đối phó, hình
thức… cho phần lớn những người làm công tác kế toán.

Trách nhiệm của các công ty niêm yết, các nhà đầu tư và
các công ty kiểm toán liên quan đến tính trung thực hợp lý, công khai và minh
bạch của các thông tin tài chính được công bố – chưa được xử lý đúng luật

    Trong lĩnh vực kinh doanh, bất kỳ một
quyết định nào cũng phải đều dựa trên cơ sở các thông tin minh bạch, đáng tin
cậy thì mới hạn chế được rủi ro và mang lại hiệu quả đầu tư cao. Trong kinh
doanh chứng khoán thí vấn đề náy đối với các nhà đầu tư càng trở nên quan trọn,
nếu không muốn nói mang tính quyết định.

    Hiện nay trên thị trường chứng khoán Việt
Nam,
các thông tin tài chính của các công ty niêm yết chưa đáng tin cậy bởi các lý
do sau:

    – Một số khá lớn các công ty niêm yết
chưa công khai báo cáo tài chính kịp thời theo quy định của pháp luật.

    – Một số công ty niêm yết công khai thông
tin tình hình tài chính nhưng chưa được kiểm toán (không có báo cáo kiểm toán
đính kèm theo).

    -Một số báo cáo tài chính đã được kiểm
toán thì báo cáo kiểm toán cũng chưa đảm bảo chất lượng. Bên cạnh đó, phần lớn
các công ty kiểm toán chưa mua bảo hiểm nghề nghiệp – điều này gây rủi ro rất
lớn cho các nhà đầu tư, các tổ chứ đã sử dụng thông tin kiểm toán.

    Một nguyên nhân rất quan trọng làm cho
tính minh bạch và độ tin cậy của thông tin tài chính của các công ty niêm yết
trên thị trường chứng khoán còn thấp chính là do: trách nhiệm của các bên liên
quan chưa được xem xét và xử lý đúng luật. Cụ thể bao gồm:

    Trách nhiệm của cá nhân người lập báo cáo
tài chính, kế toán trưởng, giám đốc) và công ty niêm yết trong việc lập và công
khai báo cáo tài chính không trung thực; không đảm bảo tính minh bạch của các
thông tin tài chính.

    Trách nhiệm của các kiểm toán viên và
công ty kiểm toán trong việc đưa ra nhận xét không thích hợp, gây ra thiệt hại
cho các nhà đầu tư và các bên liên quan (mức bồi thường cao nhất bằng 10 lần
chi phí kiểm toán).

    Trách nhiệm của công ty bảo hiểm (chịu
trách nhiệm về thiệt hại của công ty kiểm toán theo hợp đồng).

    Trách nhiệm của chính bản thân các nhà
đầu tư…

Độ tin cậy của kết quả kiểm toán độc lập báo cáo tài
chính đối với ngân hàng thương mại Việt Nam chưa cao

    Thời gian qua, độ tin cậy kết quả kiểm
toán độc lập báo cáo tài chính của Ngân hàng thương mại Việt Nam chưa cao và đó
là nguyên nhân ảnh hưởng đến tính minh bạch thông tin tài chính trên tài chính.
Độ tin cậy kết quả kiểm toán độc lập thường do các yếu tố ảnh hưởng sau đây:

    Thứ nhất,  yếu tố rủi ro tiềm tàng
trong hoạt động ngân hàng thương mại Việt Nam khá cao. Ví dụ: mối quan hệ dọc
và ngang phức tạp trong hệ thống ngân hàng…

    Thứ hai,  yếu tố rủi ro kiểm soát –
nằm ngay trong hoạt động của mỗi ngân hàng thương mại – cũng khá cao. Đó chính
là những hạn chế của hệ thống kiểm soát nội bộ ngân hàng.

    Thứ ba, yếu tố rủi ro phát hiện nắm ngay
chính trong hoạt động kiểm toán của các công ty kiểm toán độc lập.

    Ví dụ: công ty kiểm toán quy mô nhỏ, kinh
nghiệm ít, chất lượng kiểm toán viên thấp… Do sự cạnh tranh không lành mạnh của
các công ty kiểm toán bằng cách hạ giá phí đã gián tiếp ảnh hưởng đến chất lượng
của báo cáo kiểm toán. Do giá phí kiểm toán cắt giảm, để đảm bảo lợi nhuận
trong kinh doanh các công ty kiểm toán bắt buộc phải cắt giảm thời gian kiểm
toán, cắt giảm thủ tục kiểm toán số lượng các bằng chứng kiểm toán bị thu hẹp…
Đội ngũ kiểm toán viên mỏng và yếu về nghiệp vụ; chưa có chuyên kiểm toán cho
các ngân hàng…

    Thứ tư, việc kiểm toán chất lượng dịch vụ
kiểm toán độc lập trong lĩnh vực ngân hàng của các cơ quan còn bị buông lỏng.

    Điều kiện thành lập công ty kiểm toán quá
dễ dàng;

 Việc quản lý kiểm toán viên chưa chặt chẽ dẫn đến tình
trạng cho thuê chứng chỉ kiểm toán viên (thẻ hành nghề);

    Các công ty kiểm toán chưa có quy định
mua bảo hiểm nghề nghiệp…

    Việc quy định lựa chọn công ty kiểm toán thông
qua đấu thầu làm cho các công ty kiểm toán thi nhau hạ giá phí đến mức thấp
nhất để trúng thầu – làm ảnh hưởng đến đến chất lượng kiểm toán. Mặt 
khác, thông qua đấu thầu thì công ty kiểm toán cho ngân hàng thương mại nào đó
bị thay đổi liên tục, điều này sẽ không phù hợp với thông lệ quốc tế.

    Các vấn đề trên làm cho chất lượng dịch
vụ kiểm toán còn thấp và ít được sự tin cậy của công chúng.

    Thứ năm, mức độ minh bạch công khai hóa
thông tin cá ngân hàng thương mại còn thấp: ít thông tin được công bố, độ tin
cậy chưa cao… chính điều này đã làm cho các chủ thể trong nền kinh tế không
có thói quen sử dụng các báo cáo tài chính và báo cáo kiểm toán cho công việc
của mình. 

Giải pháp nâng cao tính minh bạch thông tin tài chính

Hoàn thiện công tác kế toán – kiểm toán

    Thứ nhất, cần phải tiếp tục hoàn thiện
công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động của hệ thống kiểm toán trong nền
kinh tế quốc dân. Cụ thể:

    Không nên có hai hệ thống kế toán áp dụng
cho các doanh nghiệp, ngân hàng thương mại.

    Nên cố gắng tạo ra và duy trì ổn định cho
các chế độ kiểm toán được ban hành.

    Bộ tài chính nên giảm bớt những nội dung quản
lý chi tiết quá – chỉ nên ban hành các nguyên tác, chuẩn mực và sự hướng dẫn.

    Nên bổ sung “Báo cáo vốn chủ sở hữu” vào danh
mục các báo cáo cần phải có đối với các doanh nghiệp.

    Bộ tài chính nên tăng cường mở rộng hơn
nữa các lớp đào tạo bồi dưỡng kiến thức chuyên môn nghiệp vụ kế toán – không
chỉ cho các kế toán viên mà cho cả đối tượng khác trong xã hội – đặc biệt là
các đối tượng có như cầu sử dụng thông tin của kế toán.

    Thứ hai, về hoạt động kiểm toán độc lập:

    Ngành kiểm toán phải đặt mục tiêu phát
triển về quy mô, đa dạng hóa dịch vụ cung cấp và đặt tốc độ tăng trưởng cao về
doanh thu và lợi nhuận.

    Đảm chất lượng dịch vụ: nâng cao năng lực
chuyên môn, giảm thiểu rủi ro nghề nghiệp, đầu tư công nghệ và kỹ thuật kiểm toán,
kiểm soát chất lượng dịch vụ, hòa nhập với thị trường khu vực và quốc tế.

    Tránh những hiện tượng cạnh tranh không
lành mạnh (như giảm giá phí)

    Xây dựng chính sách tuyển dụng, đào tạo
hợp lý.

    Xây dựng quy trình kỹ, thuật kiểm toán
chung và riêng cho lĩnh vực, khu vực chứng khoán, ngân hàng…

Các Ngân hàng thương mại tự hoàn thiện mình

    – Hệ thống thông tin có vai trò vô cùng
quan trọng đối với hoạt động của ngân hàng, do đó trước hết, để nâng cao chất
lượng hệ thống thông tin cần phải tăng cường đầu tư cho việc ứng dụng công nghệ
mới.

    – Bố trí nhân sự và đào tạo cán bộ cho bộ
phận kiểm toán nội bộ các ngân hàng thương mại về các lĩnh vực: kiến thức chung
nghiệp cụ ngân hàng; kiến thức về pháp luật, kinh tế, kiểm toán, tin học và
ngoại ngữ.

    – Bản thân các ngân hàng thương mại phải nâng
cao chất lượng quản lý – kiểm soát chất lượng dịch vụ được kiểm toán cung cấp
nhằm nâng cao lòng tin của các nhà đầu tư cào báo cáo tài chính của ngân hàng
đã được kiểm toán.

    – Xây dựng mối quan hệ giữa thanh tra
ngân hàng, kiểm toán nội bộ và kiểm toán độc lập. theo kinh nghiệm của một số
nước, mối quan hệ này đã bổ sung cho nhau, giúp họ gặt hái được nhiều lợi ích
từ công việc.

    Với các tổ chức tín dụng lớn, có nhiều
chi nhánh và đơn vị trực thuộc, hoạt động đa năng… cần thiết thuê kiểm toán
bên ngoài làm một số phần việc của kiểm toán nội bộ – như vậy vừa tiết kiệm lao
động, vừa đảm bảo tính khách quan của kiểm toán nội bộ.

Nâng cao chất lượng thông tin kế toán – kiểm toán trên
thông tin chứng khoán

Thứ nhất, tiếp tục ban hành đầy đủ hệ thống chuẩn mực kế
toán, kiểm toán Việt Nam, rút ngắn khoảng cách giữa các chuẩn mực của Việt Nam
so với các chuẩn mực quốc tế, đồng thời hướng dẫn việc áp dụng các chuẩn mực
phù hợp với thực tế.

    Thứ hai, xuất phát từ yêu cầu chính đánh
của nhà đầu tư là các báo cáo tài chính có kiểm toán của các công ty niêm yết
phải có chất lượng tốt, cung cấp thông tin chính xác cho thị trường chứng khoán,
việc lựa chọn các cong ty kiểm toán có đủ năng lực, uy tín, đảm bảo kiểm toán
là điều kiện quan trọng để nâng cao chất lượng các thông tin tài chính. Các cơ
quan chức năng cần sớm ban hành những văn bản dưới luật hướng dẫn cụ thể việc
thực hiện các văn bản pháp luật có liên quan đến hoạt động kiểm toán – đặc biệt
là các chế tài xử lý trong trường hợp vi phạm. Thực tế qua các cuộc kiểm
tra,các cơ quan thẩm quyền đã phát hiện ra những trường hợp vi phạm pháp luật
kiểm toán, nhưng vì thiếu chế tài nên không có căn cứ để xử lý.

    Thứ ba, đề cao trách nhiệm của các cơ
quan quản ký Nhà nước như Ủy ban chứng khoán – là cơ quan chịu trách nhiệm trực
tiếp về quản lý Nhà nước đối với các hoạt động của thị trường chứng khoán nói
chung và việc minh bạch hóa các thông tin công khai trên thị trường chứng khoán
nói riêng.

    Vấn đề then chốt mà các cơ quan quản lý
Nhà nước phải thực hiện là xây dựng và ban hành đầy đủ, đồng bộ các văn bản
pháp quy về quản lý chặt chẽ việc minh bạch hóa các thông tin của các công ty
nêm yết; thực hiện quyền kiểm tra giám sát về tính minh bạch các thông tin của
các công ty niêm yết và xử lý các tổ chức và cá nhân vi phạm theo pháp luật.

    Tuy nhiên, các cơ quan quản lý Nhà nước
cũng không được dùng các biện pháp hành chính để can thiệp thô bạo vào việc
công khai thông tin, tính minh bạch thông tin của các công ty niêm yết. Nếu các
cơ quan quản lý Nhà nước can thiệp trái pháp luật gây thiệt hại cho các công ty
niêm yết thù cũng phải chịu bồi thường theo pháp luật.

    Thứ tư, hoàn thiện cơ sở dữ liệu để phân
tích báo cáo tài chính trong chương trình đào tạo chứng chỉ hành nghề chứng
khoán.

    Báo cáo tài chính là cơ sở dữ liệu quan trọng
trong việc cung cấp thông tin cho các nhà đầu tư chứng khoán. Để có thể phân
tích nhằm đưa ra những đánh giá đúng đắn về khả năng tài chính, hiệu quả kinh
doanh và tiềm năng phát triển của doanh nghiệp, các nhà đầu tư phải dựa vào
nguồn thông tin trung thực, đầy đủ và rõ ràng của doanh nghiệp – thông qua hệ
thống báo cáo tài chính. Thế nhưng, trong Giáo trình “Phân tích và đầu tư chứng
khoán” (NXB Chính trị quốc gia năm 2003) – được Trung Tâm Nghiên cứu và Bồi
dưỡng nghiệp vụ chứng khoán đưa vào giảng dạy cho các đối tượng học và thi chứng
chỉ hàng nghề chứng khoán – có nhiều cơ sở dữ liệu chưa được hoàn thiện – so
với thồn lệ quốc tế và chuẩn mực kế toán Việt Nam. Hệ thống cơ sở dữ liệu mà Giáo
trình “Phân tích và đầu tư chứng khoán” đưa ra không được cập nhật cả về hình
thức và nội dung, sai sót về dịch thuật và thiếu chính xác về thuật ngữ; hệ thống
chỉ tiêu không đầy đủ và không tương thích với báo cáo tài chính hiện hành của
các công ty niêm yết chứng khoán. Cụ thể:

    Thiếu Bảng thuyết minh báo cáo tài chính.
Đây là tài liệu hết sức quan trọng để phân tích thông tin trên báo cáo tài chính
một cách đầy đủ và chính xác.

Chưa đảm bảo sự minh bạch rõ ràng các chỉ tiêu: Tiền; Các
khoản tương đương tiền (tính thanh khoản cao); Các khoản đầu tư tài chính ngắn
hạn (đáo hạn dưới một năm).

    Khoản “Dự phòng phải thu khó đòi”,
“Thương phiếu trả lại”, “Nợ tích luỹ”… được giải thích không đúng bản chất
của các chỉ tiêu này. Và còn nhiều các tiêu khác mà khi dịch thuật đã không làm
rõ nghĩa và không tương thích với các chỉ tiêu trên báo cáo tài chính hiện hành
của các công ty niêm yết.

    Tóm lại, với một hệ thống các giải pháp
đồng bộ cho cả 3 hệ thống: Kế toán – kiểm toán, Ngân hàng thương mại và Thị
trường chứng khoán – hy vọng rằng sự minh bạch thông tin tài chính trên thị
trường Việt Nam sẽ được cải thiện – góp phần làm lành mạnh hóa thị trường và
thúc đẩy nền kinh tế phát triển. 

Theo TS.Nguyễn Thị Minh Tâm – TC Kiểm toán