Tại sao phải tăng cường giám sát thị trường tài chính trong giai đoạn hiện nay

Tại sao phải tăng cường giám sát thị trường tài chính trong giai đoạn hiện nay
TCKT cập nhật: 18/01/2010

Về thị trường
tài chính:

Theo Mishkim (1995)thì: “thị trường trong đó vốn
được chuyển dịch từ  người có vốn dư thừa
với những người thiếu vốn”

Cơ cấu thị trường tài chính theo quan điểm của nước
Anh, Mỹ

Theo chúng tôi quan niệm về thị trường tài chính như
trên cần phải làm rõ hoặc bổ sung thêm ba loại thị trường nữa đó là:

+ Thị trưởng vàng bạc

+ Thị trường tài chính phát sinh

+ Thị trường bảo hiểm và các quỹ hưu trí

Bởi vì có thể nói đồng tiền cuối cùng, tiền của các
loại tiền chính là vàng.Vàng tiền là hai thước đo thực sự của mọi hàng hóa. Nó
có vai trò giống như ngân hàng của các ngân hàng vậy. Do đó, khi bàn đến thị
trường tài chính phải có thị trường vàng.

Thị trường tài chính phát sinh trong thời đại hiện
nay có vai trò rất to lớn, đa dạng và phong phú. Ví dụ, bên cạnh thị trường này
có các thị trường tài chính phát sinh về vàng; bên cạnh thị trường cổ phiếu có
có thị trường tài chính cổ phiếu phát sinh, trái phiếu phát sinh: Hợp đồng giao
hàng chậm; Hợp đồng viễn kỳ điều kiện; Hợp đồng viễn kỳ biên lượng; Đối xứng
delta và các hợp đồng quyền kỳ hạn khác v.v…

Năm 2006, tổng quy mô trên thị trường tài chính phát
sinh đạt 370.000 tỷ USD tương đương với 8 lần GDP của toàn thế giới (1).
Do vậy, bàn đến giám sát thị trường tài chính mà không nói tới thị trường tài
chính phát sinh là một khiếm khuyết lớn.

Vì sao phải
giám sát thị trường tài chính: Bắt nguồn từ sự hình thành thị trường tài chính:

– Do kinh tế hàng loạt phát
triển đến một độ nhất định thì tiền tệ ra đời, trước hết là tiền vàng, tiền
giấy có bản vị vàng.

– Khi trao đổi hàng hóa phát sinh mua bán chịu làm
nảy sinh các kỳ phiếu thương mại rồi tiền tín dụng thương mại đi đế, tiền tín
dụng chung, do Ngân hàng được Nhà nước bảo trợ phát hành làm cho thực chất tiền
tín dụng là tờ “ phiếu nợ” tờ phiếu nợ dần thay thế tiền vàng.

– Kết quả chế độ tín dụng gắn với nghề kinh doanh
tiền tệ làm xuất hiện thị trường tài chính.

– Hệ thống tiền tệ và hệ thống tín dụng chủ yếu dựa
vào yếu tố tâm lý và lòng tin, giống như các con chiên tin vào Chúa. Mác nói
rằng: Hệ thống tiền tệ và thực chất là hệ thống của hệ thống của đạo Thiên
Chúa, còn hệ thống tín dụng về thực chất là hệ thống lãnh đạo của Tin Lành” mà
cơ sở của đạo Tin Lành là đạo Thiên Chúa.

   Do vây, cả
hệ thống tín dụng hiện nay là nguồn gốc sinh ra thị trường tài chính, có tính
hai mặt rõ rệt: mặt tích cực, mặt tiêu cực:

– Mặt tích cưc của thị trường tín dụng là ở chỗ làm
cho lực lượng sản xuất phát triển nhanh, mạnh, thực hiện xã hội hóa, quốc tế
hóa v.v…

– Nhưng mặt tiêu cực: nó là đòn bẩy mạnh nhất gây ra
tình trạng sản xuất thừa và đầu cơ quá mức phá vỡ các xiềng xích giới hạn nội
tại của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa gây ra những cuộc khủng hoảng tài
chính toàn cầu như hiện nay.

   Đó cũng là
tính hai mặt của thị trường tài chính ngày nay. Do vây, giám sát thị trường tài
chính đặt ra nhằm mục đích hạn chế bớt tiêu cực của thị trường tài chính phục
vụ tăng trưởng bền vững nền kinh tế thế giới.

Bắt nguồn từ thực tiễn:

– Thực tiễn thế giới tư bản đang có cuộc khủng hoảng
tài chính toàn cầu rất nặng nề, mà nguyên nhân chính là sự giám sát thị trường
tài chính lỏng lẻo.

– Thực trạng Việt Nam: có nhiều Ngân hàng thương
mại, kinh doanh đã để mất hàng chục triệu USD, lấy cắp tiền Ngân hàng, hàng
trăm tỷ đồng mà phát hiện rất chậm còn có thể có nhiều vụ chưa phát hiện được,
thực tế đó đòi hỏi phải xây dựng cơ chế giám sát thị trường tài chính tốt hơn.

– Một hiện tượng thứ 2: Các ngân hàng thương mại có
dấu hiệu mất khả năng thanh toán một thời gian. Chứng cớ là họ phải huy động
vốn qua đêm, qua ngày, qua tuần và tháng với lãi suất rất cao.

– Ngân hàng thương mại đang hoạt động ngược lại với
quy luật như:

+ Lấy vốn ngắn hạn đầu tư dài hạn trong khi lãi suất
ngăn hạn càng ngày càng cao hơn lãi suất dài hạn nhiều lần.

+ Lãi suất thấp hơn mức lạm phát nhiều lần: ước tính
lạm phát 2008 không dưới 2 con số 24% trong khi lãi suất huy động của Ngân hàng
không quá 18-20%. Đó là lãi suất thực âm. Vậy không thể bảo đảm lợi ích của
khách hàng (nhà gửi tiền được vv…).

+ Lạm phát như hiện nay có phần bắt nguồn từ việc
giám sát thị trường tài chính, không có hiệu quả.

– Hiện nay giám sát thị trường tài chính đang chủ
yếu dựa vào giám sát nội bộ của từng ngành, từng bộ. Chứ chưa có tổ chức đủ
mạnh giữa giám sát thị trường tài chính.

– Vấn đề quốc tế thị trường tài chính tự do hóa thị
trường tài chính, đặt ra phải có sự giám sát toàn diện chặt chẽ đủ mạnh để vừa
có thể giữ được tính độc lập tự chủ của thị trường tài chính vừa hòa nhập tự do
hóa tài chính theo hội nhập quốc tế.

   Trước hết
phải hiểu Viện Fes,IMF, WB, vv… là những tổ chức tài chính đang chi phối toàn
thế giới. Viện Fes: Đó là một ngân hàng cổ phần tư nhân mà đứng đầu là 7 tài
phiệt ở phố Wall Mỹ (đứng đầu là Morgan, Rochefeller, William)­

   Viện Fes
kết hợp với ngân hàng TW Anh cũng là một ngân hàng tư nhân và bán tư nhân làm
thành trục tài chính quốc tế chi phối cả thế giới mà trước đây ta đã nghe nói
đến đó là bọn đầu sỏ tài chính.

Thế lực Fes đè nặng
lên đầu Tổng thống Mỹ và các chính phủ trên thế giới thế nào?

   Nhóm tài
phiệt Mỹ đã tạo ra một cơ chế kiểm soát nguồn cung ứng tiền xuyên quốc gia. Có
chế độ, thực hiện chính sách bơm tiền vào các nền kinh tế. Sau đó chính nổ quả
bong bóng kinh tế đó thu lợi như đã làm ở Ý, ở Thái Lan trong cuối thể kỷ 20
vừa qua (1990 và 1997)

   Drogchin
nói: chỉ cần khống chế được quyền phát hành về tiền của một quốc gia, tôi sẽ
không phụ thuộc vào bất cứ thứ pháp luật nào do ai đặt ra”

   Xem ra dựa
vào pháp luật để giám sát thị trường tài chính chưa chắc đã thắng được mọi thế
lực đen tối.

   Hai là:
Viện Fes có tổ chức Hội đồng tư vấn liên bang bao gồm các bang nằm trong ngân
hàng chư chốt trong đó số 1 là Ngân hàng Newwork

   Ba là: Họ
có lý thuyết vòng cung khủng hoảng đó bảo vệ sức mạnh tài chính nhằm hạn chế
đồng Ero của Châu Âu nhậm vào OPEC, để OPEC cung ứng dầu và gửi tiền bán dầu
vào Ngân hàng Châu Âu. Đó là một trong ý đồ chiến tranh Irac, Trung Đông của Mỹ
và Anh.

   Bốn là: vai
trò Fes được các tổng thống và các Thủ tướng đánh
giá như sau: NapoLeong vay tiền của Ngân hàng, các Ngân hàng nắm cục diện của
Chính phủ. Bởi vì kẻ trao tiền bao giờ cũng có thể hơn kẻ nhận tiền (vay tiền)

– Từ đây ta thấy vấn đề nợ IFM, WB hay một nhóm tài
phiệt nào đó nhất định có ngày họ ăn thịt. Do vậy vấn đề giám sát thị trường
tài chính trong đó có sự giám sát về các khoản nợ là rất quan trọng.

   Tổng thống
Mỹ Lincon nói: Tôi có hai kẻ thù, trong đó kẻ thù sau lưng là cơ cấu tiền tệ là
kẻ thù nguy hiểm nhất. Tính đến năm 2006 tổng nợ của Chính phủ Mỹ là 860000
USD. Bình quân một gia đình 4 người Mỹ nợ 112000 tỷ USD. Tốc độ tăng nợ của mỗi
quý là 20000 USD. Khoảng chi trả nợ đến năm 2006 đã là 400 tỷ USD và nước Mỹ sẽ
không bao giờ trả hết nợ

   Nước Mỹ
giàu nhất thế giới mà còn như thế, thử hỏi nước ta sẽ ra sao? Khi các khoản nợ
ngày càng một lớn lên.

   Tổng thống
Mỹ thứ 28 nói: Ngân hàng tư hữu là thứ quyền lực vô hình được tổ chức một cách
tĩnh lặng, bao phủ khắp nơi, khóa chặt lẫn nhau triệt để và toàn diện.

   Vậy ta dùng
cơ chế, tổ chức và công cụ gì để có thể giám sát được một đối thủ “nặng cân”
như vậy

   – Thủ tướng
Thạt Xỉn (Thái Lan) nói: “Vĩnh viễn không trở lại làm con mồi bị thương cho tư
bản quốc tế, quyết không bao giờ xin viện trợ của quỹ tiền tệ quốc tế nữa. Bởi
vì trước đó chỉ trong vòng 06 tháng tập đoàn tài chính quốc tế đã đánh sụp toàn
bộ hệ thống tài chính Đông Nam Á và một phần Hàn Quốc lúc đó họ cho nợ của Thái
Lan chủ yếu bằng USD tăng giá. Thủ thuật “bơm” tiền và hút tiền của họ sẽ làm
cho dự trữ ngoại tệ của họ giảm xuống khoảng 10 tỷ USD

   Liên hệ với
số ngoại tệ dự trữ của chúng ta nếu bị đánh sụp như thế thì còn gì để trả nợ.

   Cơ cấu tài
chính quốc tế đang tràn vào nước ta ngày một mạnh mẽ:

   – Về hệ
thống tiền tệ thế giới

   Lúc đầu là
tiền vàng; tiền giấy có bản vị vàng có thể đổi ra vàng bằng bất kì lúc nào và
theo một tỷ giá cố định hợp lý.

   Nhưng sau
đó tiền tín dụng ra đời như đồng USD thực chất là “1 tờ phiếu nợ” giữa chính
phủ Mỹ và viện Fes mà thôi.

   Lúc đầu
nhân loại dùng tiền vàng, bản vị vàng đó là lúc đó có tiền thật, thước đo được
trọng lượng mọi vật bởi vì chính bản thân nó cũng có trọng lượng.

   Nhưng sau
đó nhân loại đã dùng thước đo ảo dùng các “tờ phiếu nợ” để đo lường giá trị các
hàng hóa là một thước đo không xác định, không thật, vì sao nhân loại làm như
vậy: trước hết là vì lợi ích của các nàh tài phiệt, lợi ích đó được biến thành
học thuyết tiền tệ của Key Nes từ 1936 với chủ đích (1)

   Có tiền
giấy thì mới có lạm phát tiền tệ.

   Chính phủ
có thể tận thu toàn bộ của cải của người dân một cách bí mật mà khó có thể phát
giác…

   Tiền tệ:
Tín dụng, gắn với quan hệ vay mượn, người ta tăng trưởng kinh tế dựa vào vay
mượn, ổn định kinh tế dựa vào vay mượn khủng hoảng tài chính, lạm phát tiền tệ
cũng chủ yếu do vay mượn tiền tệ bởi vì cho vay càng tăng, lãi suất càng tăng
số tiền in thêm càng lớn đến mức vượt quá sự phát triển của nền kinh tế và dẫn
đến sụp đổ toàn bộ hệ thống. Tiền tệ hóa của dịch vụ vay mượn, cộng với sự tăng
trưởng của các công cụ tín dụng, các sản phẩm tài chính phát sinh là một trong
những nhân tố gặp bất ổn nghiệm trọng nhất cho nền kinh tế hiện đại. Vì nó
thông qua dự chi tương lai để thỏa mãn nhu cầu hiện đại.

   Giám sát
thị trường tài chính trước hết là giám sát những dòng tiền vay mượn dịch chuyển
thông qua thị trường tài chính để thực hiện thông qua thị trường tài chính để
thực hiện các ý đồ của mình. Hiện nay, trên thế giới có hai sự bảo hộ thông qua
thị trường tài chính:

   Viện Fes và
các Chính phủ phương tây đang bơm tiền cho các Ngân hàng thương mại để cứu nguy
sự phá sản, sự mất khả năng thanh toán các Ngân hàng.

   Chính phủ
Achentina: quốc hữu hóa quỹ hưu trí để bảo vệ người về hưu.

   Như vậy, sự
giống nhau là ở chỗ khẩu súng tiền tệ là giống nhau nhưng bắn ai? Bảo vệ ai thì
khác nhau.

   Tóm lại cả
Keynes, Fridmim, Samuelson đều chủ trương dùng tiền giấy, tiền tín dụng, các
phiếu nợ thay thế cho tiền vàng. Do đó khủng hoảng tài chính,lạm phát tiền tệ
mất thước đo thật là vấn đề không tránh khỏi công cụ chính của Ngân hàng quốc
tế: là dùng quan hệ vay mượn tiền tín dụng để lũng đoạn các thị trường tài
chính của các quốc gia. Do vậu sự giám sát thị trường tài chính Việt Nam không thể
không có sự giám sát, dịch chuyển vòng tiền có tính quốc tế được. Vấn đề là
hàng trăm triệu tiền đồng đó đang chạy đi đâu, nhằm mục đích gì? Có lợi cho ai.
Đó là nội dung giám sát rất quan trọng.

    Kiểu kinh
tế dựa trên trục vay mượn tiền, “bơm” tiền và hút tiền trên thị trường tài
chính của các Ngân hàng quốc tế, các nhà tài phiệt đòi hỏi sự giám sát thị
trường tài chính.

    Đã có một
khách hàng kiện các Ngân hàng thương mại khi Ngân hàng này đem tiền bạc, vàng
của khách ra kinh doanh có thể gây mạo hiểm, nhiều ý đồ đen tối mà khách hàng
không hề biết gì và phải chịu thua thiệt.vv…

   Tòa án nước
Anh đã phán quyết:

   Khi gửi vào
ngân hàng thì tiền không còn thuộc về khách hàng nữa.

   Ngân hàng
có toàn quyết sử dụng số tiền đó mà không có nghĩa vụ phải trả lời khách hàng
ngay về việc số tiền này có nguy hiểm không? Có bị dùng vào việc đầu cơ gây hại
không?vv…

   Ngân hàng
chỉ có nghĩa cụ trả tiền cho khách hàng theo hợp đồng. Vậy ai là giám sát hoạt
động Ngân hàng, để tài sản công dân không bị xâm phạm, sử dụng đúng mục đích.
Chắc chắn để thanh tra ngân hàng là không ổn, không đủ quyền lực phán quyết
người nuôi mình được.

   Một thực tế
là công ty tài chính, Ngân hàng mà vốn tự có của họ chỉ bằng 3,5% doanh số của
các khoản nợ thì hỏi làm thế nào để họ có thể đảm bảo được rủi ro cho khách
hàng, khi vốn huy động lên đến hàng ngàn lần vốn tự có.

   Nhờ vào các
sản phẩm tài chính phát sinh, lại được Chính phủ bảo vệ, phát hành công trái
ngắn hạn để hỗ trợ vốn cho khaonr vay bất động sản có lãi suất cố định hơn 30
năm. Họ lấy vốn ngắn hạn đầu tư dài hạn, kiếm chênh lệch lãi suất, thử hỏi khi
cách hoạt động tài chính đó xâm nhập vào Việt Nam thì chúng ta phải giám sát bằng
cách nào? Và ai là người giám sát.

   Vậy nội
dung giám sát: Do vay mượn tạo ra, do nhập khẩu tạo ra, do mất cân đối cán cân
thương mại; do kinh doanh thua lỗ tạo ra.vv…

   Các hoạt
động Ngân hàng, các quỹ đầu tư một mặt là công cụ kiểm soát của nền kinh tế,
mặt khác Ngân hàng là một xí nghiệp kinh doanh. Do vậy Ngân hàng đi kiểm soát
người khác và phải có người khác kiểm soát lại Ngân hàng.

   Cơ cấu giám
sát: Theo chúng tôi phải giám sát nhiều tầng, các ngành, bộ, Ủy ban, Tập đoàn
có cơ cấu tự giám sát nội bộ. Phải có cấp giám sát vĩ mô toàn diện và có tính
chiến lược.

   Tổ chức
giám sát này có thể trực thuộc Quốc hội. Giám sát cả Ngân hàng Nhà nước, quỹ
tiền tệ Chính phủ kiểm soát sự phát triển có tính định hướng chiến lược và kiểm
soát có tính nghiệp vụ kỹ thuật để giúp kiểm soát định hướng đúng.vv…

   Chẳng hạn
kiểm soát sự dịch chuyển các vòng vốn để phục vụ cho tăng trưởng bền vững thì
phải không được bơm tiền vào lưu thông gây lạm phát, gây nhập siêu, mất khả
năng thanh toán gây thất nghiệp, mất cân bằng vĩ mô, gây ô nhiễm môi trường vv…

   Trái lại,
phải sử dụng việc bơm tiền vào, hút tiền vay, tiền mà hạn chế tăng trưởng nóng,
kiểu tăng nợ tăng nhập siêu vv…

   Trọng tâm
chính của sự giám sát thị trường tài chính là giám sát tính tự phát, tính đầu
cơ lừa đảo, tính tạo ra những nhu cầu ảo, những cơn lũ về tiền tệ thông qua thị
trường để rồi sau đó lại tạo ra những cơn hạn hán tiền tệ, qua đó mà gây ra sự
đổ vỡ, sự khủng hoảng tài chính và kinh tế. Bản chất của sự vay mượn vốn là để
tạo ra các khoản nợ, những núi nợ, thông qua các sản phẩm tài chính phát sinh
để chi phối con nợ và tạo ra sự sụp đổ toàn cầu như hiện nay.

   Trình tự
các bước sụp đổ về thị trường tài chính là: từ lạm phát đi đến tăng nợ, mất khả
năng thanh toán, mất lòng tin, tăng sự hỗn loạn về tâm lý đi đến sự sụp đổ dây
chuyền. Mà dù cho Fes hoặc ai đó có đổ ra hàng
nghìn USD, hàng tấn vàng, hàng ngàn tấn dầu đầu cơ bấy lâu được gắn lại ở một
nơi nào đó vv… thì cũng khó cứu vãn được tình thế. Bởi vì trong lòng thị trường
tài chính đã chứa đựng những sự vô ảo, sự ảo tưởng những món nợ quá lớn, không
gì vô lý bằng làm cho các món nợ cũng trở thành hàng hóa, nợ và các giấy tờ mua
bán có doanh số lớn hơn của cải thực hàng trăm hàng nghìn lần. Thị trường tài
chính sớm muộn cũng xảy ra đổ vỡ, khủng hoảng không tránh khỏi “Kinh nghiệm của
chúng tôi cho biết trong tương lai nhất định sẽ có kẻ phải trả những món nợ này
tôi e rằng lòng tham vô đáy của con người sẽ kéo nhân loại đi theo vết xe đổ” .

Theo

  PGS.TS Nguyễn
Văn Kỷ – tapchiketoan